Vi phẫu thuật là gì? Các công bố khoa học về Vi phẫu thuật
Vi phẫu thuật là một quá trình y tế mà bác sĩ sử dụng các công cụ và kỹ thuật đặc biệt để điều trị bệnh hoặc sửa chữa các vấn đề được phát hiện trong cơ thể con...
Vi phẫu thuật là một quá trình y tế mà bác sĩ sử dụng các công cụ và kỹ thuật đặc biệt để điều trị bệnh hoặc sửa chữa các vấn đề được phát hiện trong cơ thể con người thông qua việc cắt hoặc phân loại các tổ chức, cơ quan và cơ cấu trong cơ thể. Quá trình này có thể được thực hiện để chẩn đoán, điều trị và ngăn ngừa nhiều bệnh tật và tình trạng khác nhau. Vi phẫu thuật thường được thực hiện trong một phòng phẫu thuật hoặc môi trường y tế tương tự, dưới sự sử dụng của một đội ngũ y tế chuyên nghiệp.
Vi phẫu thuật là quá trình y tế phức tạp và đòi hỏi sự chuyên nghiệp cao. Nó bao gồm sử dụng các công cụ y tế đặc biệt và kỹ thuật để thực hiện các thao tác cắt, mổ, hoặc xử lý các cơ quan, mô, và hệ thống trong cơ thể con người.
Trước khi thực hiện một ca phẫu thuật, bác sĩ sẽ tiến hành chuẩn đoán và đánh giá tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Sau đó, một kế hoạch phẫu thuật được xác định, bao gồm các bước tiền phẫu thuật như chuẩn bị vật liệu, thực hiện xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh, và chuẩn bị tinh thần cho bệnh nhân.
Trong quá trình phẫu thuật, bệnh nhân thường được đưa vào tình trạng mất ý thức thông qua sự sử dụng của thuốc gây mê hoặc thiếu cảm giác vùng cơ thể cần phẫu thuật thông qua thuốc gây tê. Sau đó, bác sĩ sẽ tiến hành các bước phẫu thuật như cắt, mỏ, hoặc gỡ bỏ các mô khối ác tính, sửa chữa các vết thương, hoặc thay thế và tái tạo các cơ quan bị hư hỏng. Bác sĩ cũng có thể sử dụng các kỹ thuật hợp tác như châm cứu, nạo hút, hoặc sử dụng máy laser để thực hiện việc điều trị và tái tạo.
Sau khi quá trình phẫu thuật hoàn tất, bệnh nhân sẽ được chăm sóc trong quá trình hồi phục. Quá trình này bao gồm quản lý đau, theo dõi các dấu hiệu viêm nhiễm và loại trừ các biến chứng có thể xảy ra sau phẫu thuật.
Vi phẫu thuật không chỉ giúp chẩn đoán và điều trị các bệnh lý, nó còn có thể được thực hiện nhằm mục đích ôn định và tái cấu trúc các cơ quan bị hư hỏng, và cải thiện chất lượng sống của bệnh nhân.
Để cung cấp thêm thông tin chi tiết về vi phẫu thuật, chúng ta có thể xem xét một số loại phẫu thuật phổ biến và cách chúng được thực hiện:
1. Phẫu thuật tim: Đây là một trong những phẫu thuật quan trọng nhất và phức tạp nhất trong lĩnh vực y tế. Phẫu thuật này thường được thực hiện để điều trị các vấn đề tim mạch nghiêm trọng như suy tim, nhồi máu cơ tim, hở van tim, hoặc cải thiện luồng máu đến tim. Quá trình này bao gồm mở ngực, ngắt máy tim và sử dụng máy tạo máu để duy trì sự lưu thông của máu trong cơ thể trong khi tiến hành sửa chữa cấu trúc của tim.
2. Phẫu thuật não: Phẫu thuật này thường được thực hiện để điều trị các vấn đề liên quan đến hệ thống thần kinh trong não. Ví dụ bao gồm loại bỏ khối u não, hình thành ống dẫn trong trường hợp dị tật não, và thiết lập thủng ngực để giảm áp suất trong não. Phẫu thuật này yêu cầu kỹ thuật cao và sự tỉ mỉ vì não là một cơ quan rất quan trọng và nhạy cảm.
3. Phẫu thuật tiêu hóa: Có nhiều loại phẫu thuật tiêu hóa được thực hiện để điều trị các vấn đề về dạ dày, ruột, gan và túi mật. Ví dụ bao gồm phẫu thuật nạo vét dạ dày để loại bỏ khối u, tiêm chất acid vào dạ dày để giảm triệu chứng loét dạ dày, hoặc cắt bỏ một phần gan bị tổn thương. Quá trình này thường được tiến hành thông qua các cắt nhỏ hoặc sử dụng kỹ thuật siêu âm để hướng dẫn.
4. Phẫu thuật thẩm mỹ: Đây là loại phẫu thuật nhằm cải thiện ngoại hình hoặc vẻ đẹp của một người. Ví dụ bao gồm phẫu thuật nâng mặt, phẫu thuật thay đổi hình dạng mũi, hoặc phẫu thuật chỉnh hình ngực. Phẫu thuật thẩm mỹ thường được thực hiện để cải thiện lòng tự tin và sự tự hào về ngoại hình.
Đó chỉ là một số ví dụ về các loại phẫu thuật phổ biến và không bao gồm tất cả. Quá trình vi phẫu thuật yêu cầu kiến thức y tế sâu rộng, kỹ thuật chính xác và quản lý tỉ mỉ. Ngoài ra, vi phẫu thuật phải tuân thủ các quy trình vệ sinh, an toàn và đạo đức nghiêm ngặt để đảm bảo tốt nhất cho bệnh nhân.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vi phẫu thuật":
Các hồ sơ về quá trình phục hồi sau phẫu thuật cắt túi mật của bệnh nhân ở một bệnh viện ngoại ô Pennsylvania từ năm 1972 đến 1981 đã được xem xét để xác định xem việc phân phòng có cửa sổ nhìn ra cảnh thiên nhiên có thể có ảnh hưởng tích cực đến quá trình phục hồi hay không. Hai mươi ba bệnh nhân phẫu thuật được phân vào các phòng có cửa sổ nhìn ra cảnh thiên nhiên đã có thời gian nằm viện sau phẫu thuật ngắn hơn, nhận được ít bình luận đánh giá tiêu cực hơn trong ghi chú của y tá, và sử dụng ít thuốc giảm đau mạnh hơn so với 23 bệnh nhân khác tương tự được phân vào phòng có cửa sổ nhìn ra bức tường gạch.
Năm trường hợp đã được mô tả, trong đó những ổ vi thể của ung thư tuyến (adenocarcinoma) đã được phát hiện trong vùng mô trực tràng (mesorectum) cách một vài centimet phía dưới rìa dưới rõ ràng của ung thư trực tràng. Trong 2 trong số các trường hợp này, không có bằng chứng nào khác về sự di căn bạch huyết của khối u. Trong phương pháp cắt bỏ trực tràng trước (orthodox anterior resection), nhiều mô này vẫn còn trong khoang chậu, và có ý kiến cho rằng những ổ này có thể dẫn đến sự tái phát tại đường khâu hoặc trong vùng chậu. Do đó, việc cắt bỏ hoàn toàn vùng mô trực tràng đã được thực hiện như một phần của hơn 100 ca cắt bỏ trước liên tiếp. Năm mươi trong số này, được phân loại là các ca phẫu thuật mang tính ‘điều trị triệt để’ hoặc ‘có thể điều trị triệt để’, đã được theo dõi hơn 2 năm mà không có sự tái phát trong vùng chậu hoặc tại đường khâu.
Béo phì là yếu tố nguy cơ đối với tiểu đường, các sự kiện bệnh tim mạch, ung thư và tỷ lệ tử vong tổng thể. Giảm cân có thể bảo vệ chống lại những tình trạng này, nhưng bằng chứng vững chắc về điều này đã thiếu hụt. Nghiên cứu Chủ thể Béo phì Thụy Điển (
Chúng tôi đã đánh giá 80 vai (77 bệnh nhân) với thời gian theo dõi trung bình là 44 tháng sau khi đặt khớp giả vai ngược Grammont. Ba implant đã bị thất bại và đã được sửa chữa. Điểm số Constant trung bình đã tăng từ 22,6 điểm trước phẫu thuật lên 65,6 điểm trong lần đánh giá. Trong 96% số vai này, không có hoặc chỉ có rất ít cơn đau. Độ nâng lên phía trước chủ động trung bình đã tăng từ 73° lên 138°. Sự toàn vẹn của cơ teres minor là rất quan trọng cho việc phục hồi xoay ngoài và ảnh hưởng đáng kể đến điểm số Constant. Đã ghi nhận năm trường hợp lỏng khớp vô khuẩn của xương khớp glenoid và bảy trường hợp tách rời của thành phần glenoid.
Nghiên cứu này xác nhận những kết quả khả quan ban đầu đạt được với khớp giả ngược trong điều trị của bệnh lý gân rách. Nó nên được xem xét trong điều trị viêm khớp thoái hóa với rách lớn của gân nhưng nên được dành riêng cho bệnh nhân lớn tuổi.
Mục tiêu: Đề án B-27 của Dự án Phẫu thuật hỗ trợ quốc gia về ung thư vú và ruột được thiết lập nhằm xác định hiệu quả của việc bổ sung docetaxel sau bốn chu kỳ doxorubicin và cyclophosphamide (AC) trước phẫu thuật đối với tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và bệnh học cũng như sống sót không bệnh và tổng thể của phụ nữ bị ung thư vú có thể điều trị được.
Bệnh nhân và Phương pháp: Phụ nữ (N = 2.411) có ung thư vú nguyên phát có thể điều trị được đã được chia ngẫu nhiên thành ba nhóm: nhóm I nhận bốn chu kỳ AC trước phẫu thuật sau đó là phẫu thuật, nhóm II nhận bốn chu kỳ AC tiếp theo là bốn chu kỳ docetaxel rồi phẫu thuật, và nhóm III nhận bốn chu kỳ AC, phẫu thuật sau đó là bốn chu kỳ docetaxel. Đáp ứng khối u lâm sàng và bệnh học đối với liệu pháp trước phẫu thuật được đánh giá.
Kết quả: Kích thước khối u trung bình (4.5 cm) và các đặc điểm chính khác được cân bằng đều giữa ba nhóm điều trị. Độc tính cấp độ 4 được quan sát ở 10.3% của 2.400 bệnh nhân trong quá trình điều trị AC, và ở 23.4% của 1.584 bệnh nhân trong quá trình điều trị docetaxel. So với AC trước phẫu thuật đơn lẻ, AC trước phẫu thuật tiếp theo docetaxel đã tăng tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn lâm sàng (40.1% so với 63.6%; P < .001), tỷ lệ đáp ứng lâm sàng tổng thể (85.5% so với 90.7%; P < .001), tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn bệnh học (13.7% so với 26.1%; P < .001), và tỷ lệ bệnh nhân không có hạch âm (50.8% so với 58.2%; P < .001). Đáp ứng khối u vú chính bệnh học là một dự báo quan trọng về trạng thái hạch bệnh học (P < .001).
Kết luận: Việc bổ sung bốn chu kỳ docetaxel trước phẫu thuật sau bốn chu kỳ AC trước phẫu thuật đã tăng đáng kể tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và bệnh học đối với ung thư vú có thể điều trị được.
Các tác giả viết về ung thư thực quản bao gồm cả ung thư tuyến (adenocarcinoma) với tỷ lệ khác nhau - từ 1 đến 75 phần trăm - nhưng tỷ lệ thực tế của loại mô bệnh học này khoảng 1 phần trăm. Hầu hết các khối u adenocarcinoma có nguồn gốc từ dạ dày, liên quan đến thực quản dưới, có tỷ lệ tử vong phẫu thuật thấp hơn so với trong một phần ba giữa hoặc trên của thực quản và tiên lượng xấu hơn so với ung thư biểu mô vảy, nhưng không có phương pháp điều trị nào thay thế cho phẫu thuật. Ung thư biểu mô vảy của thực quản đã được phân tích một cách không hoàn chỉnh nhưng tối ưu nhất có thể bằng cách xem xét dữ liệu trên 83.783 bệnh nhân trong 122 bài báo. Sau khi cố gắng tiêu chuẩn hóa dữ liệu, có vẻ như trong số 100 bệnh nhân mắc bệnh này, 58 bệnh nhân sẽ được thăm dò và 39 bệnh nhân sẽ được thực hiện cắt bỏ khối u, trong đó 13 sẽ chết trong bệnh viện. Trong số 26 bệnh nhân ra viện với khối u đã được cắt bỏ, có 18 bệnh nhân sẽ sống sót sau 1 năm, 9 bệnh nhân sống sót sau 2 năm và 4 bệnh nhân sống sót sau 5 năm. Phẫu thuật cắt bỏ thực quản cho ung thư biểu mô vảy có tỷ lệ tử vong phẫu thuật cao nhất trong số các phẫu thuật được thực hiện thường quy hiện nay.
Một bảng câu hỏi qua bưu điện đã được gửi đến 10.000 bệnh nhân hơn một năm sau khi họ phẫu thuật thay khớp gối toàn phần (TKR). Bệnh nhân được đánh giá bằng thang điểm Oxford về khớp gối và được hỏi liệu họ có hài lòng, không chắc chắn hay không hài lòng với phẫu thuật TKR của mình. Tỷ lệ phản hồi đạt 87,4% (8231 trong tổng số 9417 bảng câu hỏi đủ điều kiện) và tổng cộng có 81,8% (6625 trong số 8095) bệnh nhân cảm thấy hài lòng. Mô hình hồi quy đa biến cho thấy rằng những bệnh nhân có điểm số cao hơn liên quan đến các yếu tố đau đớn và chức năng trong thang điểm Oxford về khớp gối có mức độ hài lòng thấp hơn (p < 0.001), và rằng cơn đau kéo dài là yếu tố dự đoán mạnh mẽ hơn về điều này. Giới tính nữ và chẩn đoán nguyên nhân chính là viêm khớp thoái hóa được phát hiện là những yếu tố dự đoán mức độ hài lòng của bệnh nhân thấp. Những khác biệt về tỷ lệ hài lòng cũng được quan sát liên quan đến độ tuổi, cấp độ của Hiệp hội Gây mê Hoa Kỳ và loại prosthesis.
Nghiên cứu này đã cung cấp dữ liệu về thang điểm Oxford về khớp gối và mức độ hài lòng dự kiến một năm sau TKR. Các kết quả nên được coi là một tiêu chuẩn thực hành tại Vương quốc Anh và cung cấp một cơ sở để so sánh giữa các tổ chức.
Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét 15 năm kinh nghiệm trong việc phẫu thuật khớp mắt bắp chân, đặc biệt là đề cập đến nguyên nhân gây ra các bệnh lý ở khớp mắt bắp chân, tỷ lệ không nối ghép xương, và các tình trạng liên quan có thể dẫn đến tình trạng này. Bảy mươi tám ca phẫu thuật khớp mắt bắp chân được thực hiện từ năm 1975 đến 1990 đã được xem xét cho nghiên cứu này. Thời gian theo dõi trung bình là 4 năm. Các bệnh nhân có tình trạng không nối ghép xương đã được đánh giá riêng biệt để tìm hiểu các yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến tình trạng này. Các yếu tố liên quan đến không nối ghép xương bao gồm loại gãy xương, bằng chứng của hoại tử không mạch máu, nhiễm trùng, các bệnh lý nghiêm trọng, và chấn thương mở. Các yếu tố không liên quan đến tình trạng không nối ghép xương bao gồm độ tuổi, tiền sử phẫu thuật khớp dưới gót chân hoặc phẫu thuật ba khớp, và kỹ thuật thực hiện.
Đại dịch COVID-19 hiện tại đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng có ý thức các nguồn lực tài chính và con người. Việc bảo tồn tài nguyên và nhân lực là điều tối quan trọng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Cần thiết phải đảm bảo khả năng hoạt động của các bác sĩ phẫu thuật và các chuyên gia chuyên môn trong suốt thời gian diễn ra đại dịch. Cần có những nỗ lực ý thức để giảm thiểu sự lây nhiễm trong lĩnh vực này. Tỷ lệ tử vong cao trong nhóm này sẽ rất nghiêm trọng.
Tài liệu này là kết quả của sự hợp tác giữa các hiệp hội phẫu thuật và gây mê lớn nhất của Ý: ACOI, SIC, SICUT, SICO, SICG, SIFIPAC, SICE và SIAARTI. Chúng tôi hướng tới việc mô tả các lộ trình lâm sàng được khuyến nghị cho những bệnh nhân dương tính với COVID-19 cần chăm sóc phẫu thuật cấp cứu không thể hoãn lại. Tất cả các bệnh viện cần tổ chức các quy trình làm việc và đào tạo nhân lực chuyên dụng như một phần của nỗ lực đối phó với đại dịch hiện tại.
Những bệnh nhân ung thư thường phải đối mặt với các tác dụng phụ nghiêm trọng và căng thẳng tâm lý trong quá trình điều trị ung thư, điều này có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của họ. Trong số các can thiệp tâm lý xã hội nhằm giảm thiểu các tác dụng phụ liên quan đến điều trị, thư giãn và hình ảnh là những phương pháp được nghiên cứu nhiều nhất trong các thử nghiệm kiểm soát. Trong nghiên cứu này, các phương pháp phân tích tổng hợp đã được sử dụng để tổng hợp các nghiên cứu can thiệp ngẫu nhiên đã được công bố, nhằm cải thiện các triệu chứng liên quan đến điều trị và sự điều chỉnh cảm xúc của bệnh nhân thông qua đào tạo thư giãn. Kích thước hiệu ứng trung bình có trọng số đã được tính toán cho 12 danh mục, triệu chứng liên quan đến điều trị (buồn nôn, đau, huyết áp, nhịp tim) và sự điều chỉnh cảm xúc (lo âu, trầm cảm, thù địch, căng thẳng, mệt mỏi, bối rối, năng lượng, tâm trạng tổng thể). Các hiệu ứng tích cực đáng kể đã được tìm thấy đối với các triệu chứng liên quan đến điều trị. Đào tạo thư giãn cũng chứng tỏ có hiệu ứng đáng kể đối với các biến điều chỉnh cảm xúc như trầm cảm, lo âu và thù địch. Thêm vào đó, hai nghiên cứu chỉ ra rằng thư giãn có ảnh hưởng đáng kể đến sự giảm căng thẳng và cải thiện tâm trạng tổng thể. Các đặc điểm của can thiệp đào tạo thư giãn, thời gian chuyên gia dành cho bệnh nhân nói chung (cường độ can thiệp) và lịch trình can thiệp (được cung cấp đồng thời với hoặc độc lập của điều trị y tế cho bệnh nhân ung thư) có liên quan đến hiệu ứng của thư giãn đối với lo âu. Những can thiệp được cung cấp độc lập với điều trị y tế chứng tỏ có hiệu quả đáng kể hơn đối với biến kết quả lo âu. Thư giãn dường như là equally hiệu quả đối với bệnh nhân trải qua các quy trình y tế khác nhau (hóa trị, xạ trị, ghép tế bào gốc, liệu pháp nhiệt độ cao). Theo các kết quả này, đào tạo thư giãn nên được thực hiện vào quy trình lâm sàng cho bệnh nhân ung thư trong điều trị y tế cấp tính. Bản quyền © 2001 John Wiley & Sons, Ltd.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10